Khu di tích lịch sử Ngục Kon Tum - Dấu ấn hào hùng

 Di tích lịch sử Ngục Kon Tum nằm cuối con đường Trương Quang Trọng, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận theo Quyết định số 1288/QĐ-VHTT ngày 16/11/1988. Năm 1990, ngục Kon Tum đã được công nhận là khu di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.

Theo Sở VH-TT&DL Kon Tum thì mỗi năm có trên 10 vạn lượt khách trong nước, quốc tế tới đây tham quan học tập, dâng hương. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin chia sẻ đến bạn đọc lịch sử oai hùng của các chiến sĩ cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta. Mà tiêu biểu là các chiến sĩ tù chính trị ở Ngục Kon Tum.

Nhà đày Kon Tum ( Ngục Kon Tum) có nhiều tên gọi khác nhau: Lao kẽm, Lao sắt, Lao mới hoặc Lao cầu mới thường gọi là Lao ngoài, còn Lao cũ trong thị xã (nhà Lao tỉnh Kon Tum, Prison de Kon Tum) thì gọi là Lao trong.


Nhà đày Kon Tum ( Ngục Kon Tum) 

Nằm ở bờ Bắc về phía hạ lưu sông Đăk Bla đoạn vắt ngang thành phố Kon Tum xinh đẹp, êm đềm, Di tích lịch sử Ngục Kon Tum cùng với bảo tàng tổng hợp tỉnh như một điểm nhấn vào mắt du khách khi ngược xuôi trên con đường thiên lý Hồ Chí Minh chạy suốt từ Bắc vào Nam, đoạn qua miền Trung uốn lượn. Trong chặng đường lịch sử của tỉnh Kon Tum, sự kiện “Cuộc đấu tranh lưu huyết” ngày 12/12/1931 và “Cuộc đấu tranh tuyêt thực” từ ngày 12 đến ngày 16/12/1931 của những người tù chính trị tại nhà Ngục Kon Tum mãi mãi là khúc tráng ca bất diệt về lòng yêu nước, tinh thần quả cảm của các chiến sỹ cộng sản đã làm cho kẻ thù khiếp sợ, mãi mãi là tấm gương oanh liệt cho các thế hệ mai sau.

Ngược dòng lịch sử, ta biết Ngục Kon Tum được thực dân Pháp bắt tay xây dựng Ngục Kon Tum (Lao trong) từ năm 1905 đến cuối năm 1917 mới hoàn thành. Ngục Kon Tum xây bên cạnh một rãnh nước lớn kế cận ngục phía Đông - Bắc là đường 14 (nay là đường Phan Đình Phùng - trục đường Hồ Chí Minh chạy qua thành phố Kon Tum); Tây - Nam là đồn lính khố xanh; Đông - Nam là tòa sứ, dinh quản đạo bù nhìn, Sở Cảnh sát. Chúng đặt Ngục Kon Tum vào thế bị bao vây cô lập. Để dễ bề kiểm soát chúng đào một rãnh sâu dài 150m, rộng 100m, thiết kế tại đó bốn dãy nhà theo hình hộp (vuông) diện tích khoảng 2,5ha, bốn góc ngục có 4 lô cốt xây nổi lên, đêm ngày canh phòng cẩn mật. Nhà lao xây theo kiểu pháo đài Vauban (Vô-băng) xưa của Pháp thuộc thế kỷ 17. Mái lợp ngói, vách bằng tocsi quét vôi, bốn bề không có tường bao quanh che kín như các nhà lao khác, bốn nhà dọc ngang xây liền lại với nhau thành một hình vuông, mỗi bề 18m thì có một cửa ra vào và hai chòi cao để lính gác có thể quan sát trong và ngoài lao; ở giữa là một cái sân vuông nhỏ hẹp, bề rộng của một dãy là 3,5m trong đó để 2m lát ván nằm, 1,5m là đường đi, người nằm trên sàn ván nhìn thấy ngoài sân.

Phòng trưng bày trong Ngục Kon Tum
Phòng trưng bày trong Ngục Kon Tum

Năm 1930, phong trào cách mạng ở Trung kỳ sôi nổi. Tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi,… các cuộc biểu tình liên tiếp xảy ra. Trong các cuộc biểu tình đó ngoài số người bị địch bắn chết ngay còn số bị bắt giam ở các lao cũng có tới hàng trăm ngàn người. Bấy giờ thực dân Pháp muốn lấy nhân công để khai phá các nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc như Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Kon Tum… Chúng bèn lợi dụng nhân công tù phạm. Lúc này viên công sứ Kon Tum lúc bấy giờ là Jerusalemy nhân muốn làm xong con đường 14, bèn xin gửi chính trị phạm lên và lập ở Kon Tum một nhà ngục - đó là hoàn cảnh ra đời của Ngục Kon Tum (Lao ngoài). 

Nhà đày Kon Tum gồm có 2 nhà giam, 1 nhà lớn và 1 nhà nhỏ, ở giữa hai nhà ấy là nhà lính gác, sườn nhà toàn bằng sắt: cột, kèo, xà, trích…mái lợp tôn nên có tên là nhà Lao kẽm hay nhà Lao sắt, bốn phía vách đều thưng bằng nứa, tre đập dập với dây thép gai chằng chịt qua lại dày đặc, phía hồi nhà có một cửa ra vào nhỏ hẹp, cánh cửa cũng bằng dây thép gai chằng chịt, trước cửa ra vào có một cái chòi gác của lính.

Nhà lớn có bề dài ước độ 18 hoặc 20m, bề rộng ước từ 12 đến 14m (hai gian rộng với ba vày cột kèo sắt), người ta nói địch lấy cột nhà sửa chữa ôtô nào đó về làm nhà lao; trong lòng nhà có 4 sạp rộng, hai hàng tù nằm gối đầu với nhau, sạp này cách sạp kia độ 2m, cuối chân sạp là 4 hàng cùm đứng sừng sững, nhà lao lớn này có thể giam được trên dưới 100 tù. Còn nhà thứ 2 nhỏ hơn có thể giam được 60 người. Nhà này vừa là nhà giam tù đang đi làm, vừa là nhà giam những người ốm nằm liệt, lính gọi là bệnh xá và chúng cũng gọi mỉa mai là "nhà khách" của tù.

Cái nhà nhỏ ở giữa là nhà lính, được đóng đơn sơ để lính dễ trông thấy bốn bề. Đặc điểm nổi bật của nhà đày này là bốn bề xung quanh không có thành xây giữ kín như các nhà tù khác, nó đứng trống trải trên bãi sông, bãi cát, không có chòi canh cao, không có bếp nấu ăn, không có hồ nước, không có nhà vệ sinh, ban đêm không có đèn… Nó thiết kế và xây dựng xem ra đơn giản nhưng lại lợi hại, bởi vì bốn bề trống trải, không có chỗ nào ẩn nấp, hễ tù có hành động gì thì ở ngoài lính phát hiện được ngay.

Đến tháng Chạp năm 1930 tại Ngục Kon Tum có tới 297 tù phạm. Trong số 297 người đó trừ 2 chị phụ nữ, còn lại 295 người chỉ trong thời gian 6 tháng, từ tháng Chạp năm 1930 đến tháng 6 năm 1931 làm đoạn đường từ Đăk Sút, Đăk Pao, Đăk Tao đến Đăk Pét, trải qua biết bao thảm khốc, cực khổ. Trong số 295 người đi có 170 người phải bỏ xác ở chốn rừng xanh núi đỏ.

Ở Ngục Kon Tum thực dân pháp đã thi hành những chính sách cực kỳ dã man, tàn bạo đối với tù chính trị. Cũng tại Ngục Kon Tum chứng minh cho chúng ta một điều, sự xảo quyệt độc ác và súng đạn của kẻ thù không thể khuất phục được tinh thần cách mạng kiên trung, ý chí sắt đá kiên cường, bất khuất của các chiến sĩ cộng sản. Dù hoạt động ở trong bất kỳ môi trường nào, khí tiết cách mạng của những người cộng sản vẫn được giữ vững. Cụ thể là qua cuộc đấu tranh Lưu huyết ngày 12 tháng 12 năm 1931 và cuộc đấu tranh tuyệt thực diễn ra từ ngày 12 tháng 12 đến ngày 16 tháng 12 nắm 1931. Bọn cầm quyền ở đây bất lực trước sức mạnh đoàn kết và tinh thần cách mạng của anh em tù. Chúng trở nên hung dữ, nã súng vào đám người tay không, chỉ mấy phút đồng hồ mà chúng làm cho 8 người chết và 8 người bị thương trong ngày 12 tháng 12 tháng 1931 và cách 4 ngày sau (ngày 16 tháng 12 năm 1931) lại thêm 7 người chết và 7 người bị thương.

Ngục Kon Tum được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
Ngục Kon Tum được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia

Đứng trước âm mưu chiến lược diệt trừ cộng sản của kẻ thù tàn bạo, anh chị em tù chính trị ở Ngục Kon Tum đã tổ chức một cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt. Cuộc đấu tranh này tổ chức rất chu đáo, đảm bảo yếu tố bí mật, rèn luyện hàng ngũ trở nên gang thép, có chương trình hoạt động hàng ngày, có "bản tuyên ngôn chính trị đặc biệt" và có thể nói từ trước chưa có một cuộc đấu tranh nào trong tù làm đến mức ấy. Cuộc đấu tranh có tính lịch sử này đã vạch trần ý đồ chiến lược đen tối của địch và chính sách xảo quyệt dùng người Việt diệt người Việt, dùng người Thượng diệt người Kinh gây hận thù và chia rẽ dân tộc trước dư luận trong và ngoài nước. Cuộc đấu tranh mang ý nghĩa chiến lược này đạt kết quả vô cùng rực rỡ: kẻ thù của giai cấp và của dân tộc phải bỏ ngay công trường làm đường và bãi bỏ vĩnh viễn Ngục Kon Tum.

Ông Nguyễn Văn Nam, một cưu chiến binh chiến đấu tại chiến trường Kon Tum kể rằng:  “Không khuất phục dù là cái chết cận kề, các chiến sĩ tại nhà ngục Kom Tum nổi dậy đấu tranh dữ dội. Thực dân Pháp điên cuồng lùng bắt, giết những người tù chính trị cầm đầu tại nhà ngục. Để chống lại những thủ đoạn dã man đó, hàng loạt các đợt đấu tranh của các chiến sĩ đã điễn ra như: Tuyệt thực, mổ bụng moi ruột, hi sinh một người bảo vệ tập thể. Khi thực dân Pháp vào nhà ngục hỏi bắt những người cầm đầu tù chính trị, thì những người bên cạnh đã đứng ra nhận thay người bị lùng bắt, kết quả là những người đứng đầu trong ngục được bảo vệ. Trong cuộc đấu tranh Lưu Huyết 8 chiến sĩ đã bị thực dân Pháp bắn chết tại chỗ. Cùng với đó 7 chiến sĩ đã tuyệt thực mà hy sinh trong cuộc đấu tranh tuyệt thực".

“Ngục Kon Tum một thời được ví là “địa ngục trần gian”, nơi giam giữ và đoạ đầy hơn 500 chiến sĩ cách mạng. Các chiến sĩ cách mạng đã đấu tranh kiên cường bất khuất và nhiều người đã hy sinh anh dũng, nằm lại vĩnh viễn vùng đất cực tây của Tổ quốc. Sự hy sinh của họ được nhân dân khắc cốt ghi xương". Đó là tâm sự của ông Nguyễn Văn Thọ, Giám đốc Ban Quản lý các Khu di tích tại Kon Tum.

Theo UBND tỉnh Kon Tum thì để xây dựng và tôn tạo khu di tích này tháng 6/2010 tỉnh đã tách di tích Ngục Kon Tum ra khỏi bảo tàng Kon Tum, xây dựng khu di tích này thành khu độc lập rộng khoảng gần 4 ha. Những hạng mục trong khu lịch sử này gồm: Nhà bia, tượng đài chiến thắng, hai ngôi mộ các liệt sĩ chôn chung trong cuôc đấu tranh Tuyệt Thực và Lưu Huyết, gò đất các chiến sĩ tại nhà tù đắp bắc qua sông Đăk Bla… đều được tu sửa, tu bổ hoàn chỉnh. Ngục Kon Tum đã trở thành một biểu tượng hết sức tự hào của Kom Tum nói riêng và Việt Nam nói chung, trở thành điểm tham quan lịch sử của biết bao người Việt Nam và du khách quốc tế.

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang viếng thăm và chụp hình lưu niệm tại khu di tích Ngục Kon Tum
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang viếng thăm và chụp hình lưu niệm tại khu di tích Ngục Kon Tum

Nhà ngục cũng đã được rất nhiều lãnh đạo, Đảng, Nhà nước tới viếng như: Ông Nguyễn Văn Chi Bí thư Trung ương Đảng, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang…viếng thăm.

Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong một chuyến viếng thăm nhà ngục
Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong một chuyến viếng thăm nhà ngục

Trong một lần đến viếng thăm ngục Kon Tum, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã ghi vào Sổ vàng của nhà ngục: “Tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất, tinh thần hy sinh anh dũng của các đồng chí, mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho các thế hệ người Việt Nam. Chúng tôi nguyện sẽ tiếp tục sự nghiệp cách mạng, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn”.

Nhật Trường

Post a Comment

Previous Post Next Post

Advertisement

advertising contact (position 5)